Trong những năm qua, chủ trương liên hiệp vùng của Đảng và Nhà nước đã từng bước được triển khai, tạo bước sản xuất mạnh khỏe về kinh tế - phố hội cho các địa phương. Dĩ nhiên, vẫn còn không ít những bất cập về quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách... yên cầu phải sớm có các giải pháp giải quyết.
Nhận thức và thực trạng cấu kết vùng ở nước ta hiện nay
Hòa hợp vùng “là phát triển mối quan hệ giữa không gian kinh tế với môi trường tự nhiên, sinh thái, phường hội và môi trường chế độ, thể chế giễu để phát hành ưu thế cạnh tranh động cho vùng, nước nhà, là cơ sở phát triển kinh tế - phố hội bền vững”(1).
“Đoàn kết vùng là thuật ngữ bỏ ra cho những khu vực quanh đó nhau, có liên quan và bổ trợ lẫn nhau trong một ngành nào đó. Sự phân bố và kết hợp này giúp việc điều hành dễ dãi và thống nhất hơn. Nhờ đó mà các bộ phận trong liên kế vùng có thể thuận tiện cung cấp để đạt được mục tiêu thông thường hơn so với việc tập trung vào một cá thể độc nhất vô nhị”(2).
“Kết hợp kinh tế vùng bản chất là sự liên hiệp giữa các chủ thể kinh tế khác nhau trong một vùng, dựa trên lợi ích kinh tế là chính, nhằm phát huy ưu thế so sánh, tạo ra tính cạnh tranh kinh tế cao hơn cho một vùng. Các cơ chế liên hiệp kinh tế vùng có thể trên các khía cạnh môi trường kinh tế theo lãnh thổ, chuỗi ngành hàng, tổ chức đóng hộp. Chủ trương, chính sách phát triển vùng, liên hiệp vùng không những động viên sản xuất kinh tế mà còn giúp các vùng khó khăn thực hiện tốt công dụng bảo tàng tài nguyên, sinh thái, ổn định an ninh, chính trị, phường hội”(3).
Tương tự, kết hợp vùng khiến tăng tài năng gắn kết về mặt không gian kinh tế - thiên nhiên và kinh tế - thị trấn hội (KT-XH); tăng hiệu quả điều hành vĩ mô và vi mô của các bộ, ngành nghề, địa phương và công ty; tạo lợi thế so sánh trong khó khăn và động lực sản xuất để sản xuất KT-XH hiệu quả và vững bền.

Nguồn: lyluanchinhtri.Việt Nam
Kiếm được rõ tầm quan trọng của hòa hợp vùng với phát hành kinh KT-XH non sông, Văn kiện Đại hội XII của Đảng thể hiện sự quan trọng: Đẩy mạnh liên minh về mặt không gian “giữa các địa phương trong vùng” và “giữa các vùng”, tạo sự “sản xuất hợp nhất trong vùng và cả nước”; nhằm chỉ tiêu “phát huy tối đa tiềm năng, ưu điểm của từ vùng, từng địa phương”, “đối phó có hiệu quả với thiên tai, biến đổi khí hậu”, “khắc phục hiện trạng sản xuất trùng dẫm, manh mún, kém hiệu quả”(4).
Trong những năm qua, chủ trương liên kết vùng của Đảng và Nhà nước đã dần đi tham gia thực tiễn non sông, chế độ, chế độ và hành lang pháp lý có phổ biến dễ dàng cho các cấp lĩnh vực, địa phương, hạ tầng chấp hành hiệu quả liên hiệp vùng.
Dĩ nhiên, trong công đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập toàn cầu, hòa hợp vùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế nước ta còn phổ thông bất cập, đòi hỏi phải sớm có câu tư vấn thỏa đáng về kế hoạch, quy hoạch, ý tưởnrg, hình thức chính sách, chuỗi giá trị sản phẩm…, khác lạ trong tình cảnh nước ta đang chịu sự ảnh hưởng với tốc độ cao, mạnh của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0.
Trong Kế hoạch tạo ra tổng thể quốc gia công đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030 và và kế hoạch phát triển các đơn vị quản lý kinh tế, Đảng và Nhà nước ta xác định 7 vùng kinh tế trung tâm quốc gia (miền núi và trung du Bắc bộ, đồng bằng Sông Hồng, duyên hải Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng băng sông Cửu Long) và xác định các trọng điểm của mỗi vùng.
Tại Đại hội XII, khi xác định nhiệm vụ và biện pháp chính yếu cho việc tăng mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình phát triển, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh, Đảng ta đề ra 6 biện pháp, trong đó có biện pháp “Phát triển các vùng và khu kinh tế”(5). Đương nhiên, để khai triển chủ trương, biện pháp này vào đời sống thực tiễn cần xác định rõ kế hoạch phát triển KT-XH cho từng vùng, trên cơ sở vật chất đó khai triển quy hoạch, chương trình sản xuất, đầu tư, quản trị, dịch vụ phù hợp, xúc tiến liên hiệp vùng, giảm thiểu hiện trạng các ngành chính quyền địa phương “duy trì cơ cấu đóng gói khép kì quặc”.
Với các vùng kinh tế trọng điểm, cần ban hành chế độ khó khăn với các trung tâm kinh tế khu vực ASEAN, châu Á. Theo đó, cần xác định rõ vùng kinh tế cụ thể phải phát hành theo hướng kinh tế kiến thức và đón chờ cuộc Cách mệnh kĩ nghệ 4.0 để khiến tăng hàm lượng công nghiệp cao, tạo giá trị gia tăng lớn, xúc tiến sự năng động của các khu công nghệ theo chiến lược vững mạnh mới; phát triển dịch vụ chất lượng tốt; tăng mạnh quan hệ phù hợp tác, trao đổi thương mại, nghiên cứu và phát triển ứng dụng quốc tế. Đối với các vùng điều kiện KT-XH còn gian khổ, cần có chế độ nhằm hướng việc lôi cuốn đầu cơ tham gia các đơn vị quản lý khai thác lợi thế thích hợp, khiến rõ tiềm năng, ưu thế của từng vùng để xây dựng chế độ tích hợp phát triển tổng thể.
Trong điều hành, cần làm cho rõ mối quan hệ giữa sản xuất kinh tế vùng, liên hiệp vùng với giai đoạn phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương để vừa đảm bảo tính dồn vào một chỗ hợp nhất của nền kinh tế, vừa phát huy tính chủ động, thông minh của địa phương.
Quy hoạch toàn cục phát triển KT-XH vùng và quy hoạch lĩnh vực theo vùng bây giờ của nước ta chưa đích thực là dụng cụ hữu hiệu để định hướng, nhân tố phối, phân bổ ngân sách, thú vị nguồn lực, đầu tư, quản trị môi trường KT-XH, đặc biệt là thi hành vai trò đoàn kết nội vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa đích thực phát huy vai trò đầu tàu, thiếu chức năng lan tỏa, hiệu quả đầu cơ chưa vượt trội; các vùng gian khổ tạo ra thiếu bền vững, khoảng bí quyết giữa các vùng chưa được thu hẹp; câu kết vùng còn rất yếu, nhất là giữa các tỉnh giấc và thành phố.
Vai trò vĩ mô của Nhà nước trong việc xây dựng quy hoạch, chiến lược phát hành các vùng kinh tế; tập trung các nguồn lực nước nhà và thị trấn hội phát triển cơ sở vật chất để phát hành kinh tế vùng và tăng nhanh liên kết vùng còn hạn chế giễu.
Vài vấn đề vội vã yên cầu phải có sự điều hành vĩ mô của Nhà nước để khắc phục hiệu quả như: điều biến đổi khí hậu, thâm nhập mặn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; khô hạn và điều hành nguồn nước ở vùng Tây nguyên; quản lý rừng và sinh thái vùng miền núi phía Bắc; tạo ra cơ sở vật chất, điều hành ô nhiễm và đầu cơ ở các vùng kinh tế trọng điểm; sản xuất các vùng ven biển hải đảo...
Thực tiễn cho thấy, quy hoạch toàn cục phát triển KT-XH vùng và quy hoạch ngành chưa ân cần thỏa đáng tới chức năng từng vùng gắn với nhân tố kiện KT-XH vùng và với tổng thể tổ quốc. Vì vậy, hiện ra hiện trạng hồ hết các vùng đều Áp dụng mô phỏng sản xuất phần lớn theo cùng một hướng về cơ cấu kinh tế.
Ý tưởnrg tạo ra các tỉnh giấc, thành và các vùng đều có những dấu hiệu “thu tí hon” của giang sơn, nên quy hoạch, chiến lược chưa làm cho rõ được tính đặc biệt, điểm hay của mỗi địa phương và liên minh nội vùng. Dường như đó, chất lượng quy hoạch phát hành KT-XH vùng còn đa dạng bất cập, hiện trạng quá phổ thông quy hoạch ở cấp địa phương, quy hoạch dàn trải, ko kể tới ích lợi kinh tế thông thường và ích lợi số đông đã gây ra phí phạm và phức hợp trong thực hiện.
Vì thế, để điều phối vùng một bí quyết hiệu quả, quy hoạch vùng phải gắn với yếu tố kiện KT-XH đặc trưng của vùng và phải được xác định, thi hành trong từng quá trình cụ thể. Khác biệt trong thời gian thế giới và trong nước đang chịu tác động mạnh của cuộc Cách mạng kĩ nghệ 4.0 thì công việc xây đắp quy hoạch, ý tưởnrg nói bình thường và cho hòa hợp vùng nói riêng ở nước ta cần được chú trọng hơn nữa.
Cho tới nay ở nước ta vẫn còn thiếu thể nhạo báng quản trị, yếu tố phối vùng hiệu quả. Cỗi nguồn chính yếu là do thiếu cơ chế ra quyết định và yếu tố phối câu kết giữa các địa phương. Cho nên, trong phân tích xây đắp cách thức, chính sách cần làm cho rõ thể chế nhạo quản trị đoàn kết vùng gắn với chức năng, nhiệm vụ cụ thể; đồng thời phải tính tới kỹ năng gắn kết nội vùng, liên vùng của “không gian ảo” để bao quát được hết các tài năng xảy ra trong thực tiễn liên hiệp và tạo ra giữa các vùng.
Chuỗi trị giá vật phẩm đoàn kết vùnglà yếu tố quan trọng đặc biệt để đảm bảo cho liên kết vùng có hiệu quả. Tuy nhiên, ở nước ta đây lại là khâu yếu nhất trong công đoạn xây dựng quy hoạch, ý tưởnrg hòa hợp vùng. Phương pháp phân vùng KT-XH còn rộng rãi mặt hạn chế giễu, chưa phát huy được ưu thế so sánh từng vùng theo chuỗi giá trị vật phẩm, các chuỗi trị giá đoàn kết kinh tế nội vùng và liên vùng vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Do đó, cần thải trừ dần sự chồng lấn trong phân vùng, khiến cho rõ thẩm quyền trong phân vùng quy hoạch, chiến lược và quản trị vùng theo ưu điểm so sánh của từng địa phương, khắc phục trạng thái môi trường kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính.
Các quy hoạch và ý tưởnrg được phê duyệt cần dồn vào một chỗ các nguồn lực của Nhà nước và các thành phần kinh tế để đầu cơ, tạo ra cơ sở KT-XH, đặc biệt là kết cấu cơ sở vật chất giao thông, thành phố và nông nghiệp; song song cần tạo dựng thể nhạo báng, cách thức, chính sách để thú vị mạnh mẽ các doanh nghiệp thuộc mọi nhân tố kinh tế tham gia hình thành và phát hành kinh tế vùng gắn với chuỗi giá trị vật phẩm.
Đây là yêu cầu bức thiết bởi cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 đã và đang đặt ra những thách thức lớn đối với gần như các doanh nghiệp sẽ tham gia vào chuỗi sản xuất thế giới về những thay đổi can dự tới chi tiêu, quản trị không may, giảm thiểu tính cởi mở và sự độc lập trong chiến lược kinh doanh.
Vài kiến nghị
Một là, về kiếm được thức, chúng ta cần coi công đoạn tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô phỏng vững mạnh theo vùng là một bộ phận hữu cơ của tái cơ cấu kinh tế và biến đổi mô hình tăng trưởng non sông; là phương án để tạo ra các mũi nhọn, các “cực tăng trưởng” đối với các cấp, ngành nghề của nền kinh tế, nhằm phát huy tối đa tiềm năng, ưu điểm của vùng, địa phương trong cục bộ nền kinh tế; là biện pháp khắc phục cơ cấu kinh tế “khép độc đáo” theo địa giới hành chính, trên cơ sở đó mà khai thác tối đa nguồn lực của phường hội.
Nhị là, Xây dựng chiến lược cấu kết kinh tế vùng trong kế hoạch sản xuất tổ quốc, tạo cơ sở vật chất cho việc xây dựng quy hoạch, ý tưởnrg, chương trình phát hành, đầu cơ, quản trị, dịch vụ công, phát triển công nghiệp, nông nghiệp và phục vụ… phù hợp với mỗi vùng và liên vùng có hiệu quả. Xây dựng chiến lược phát triển KT-XH của mỗi địa phương, vùng phải biểu hiện rõ tính cấu kết vùng, sớm xóa bỏ trạng thái sản xuất kinh tế khép kín.
Xây đắp cách thức điều phối, quản trị vùng. Chính sách tạo ra vùng, trong đó có liên minh vùng cần đon đả đến tính lịch sử và trình độ sản xuất KT-XH khác nhau của mỗi vùng, địa phương để bảo đảm tính vô tư giữa các đồng đội, tầng lớp cư dân, dân tộc, tạo thời cơ phát hành, san sẻ ích lợi trong thời kỳ phát hành, nhất là giữa các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số; kiến lập hình thức, chế độ thích hợp, thúc đẩy cấu kết, tăng mạnh đầu tư theo vùng phù hợp với tính năng KT-XH để tạo vấn đề kiện phát hành tốc độ hơn cho các địa phương, khác lạ là vùng biên giới, hải đảo.
Trên hạ tầng các quy hoạch và ý tưởnrg được phê phê chuẩn, tập trung các nguồn lực và các yếu tố kinh tế để đầu tư, phát hành cơ sở KT-XH, đặc biệt là kết cấu hạ tầng liên lạc, thị trấn và nông nghiệp; cùng lúc cần tạo dựng thể dè bỉu, chế độ, chế độ để lôi cuốn khỏe khoắn các doanh nghiệp thuộc mọi yếu tố kinh tế tham gia xuất hiện và tạo ra kinh tế vùng.
Xây dựng quỹ sản xuất vùng để khai triển đồng bộ các công trình mang tính liên tỉnh giấc, liên vùng. Quỹ phải được hiện ra trong khoảng các nguồn khác biệt, có đóng góp trong khoảng ngân sách Trung ương, các địa phương, các doanh nghiệp trên địa bàn, nguồn vay, tài trợ của các công ty, cá nhân trong và ngoài nước.
Ba là, đối với các vùng kinh tế trung tâm, cần cân nhắc để ban hành chính sách khó khăn với các trọng tâm kinh tế khu vực và trên nhân loại; quy định rõ câu kết vùng phải theo hướng kinh tế tri thức và tiếp cận với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, phát hành các cấp hàng có hàm lượng công nghệ cao, tạo giá trị gia tăng lớn, thúc đẩy sự năng động của các khu công nghiệp theo chiến lược vững mạnh mới, như là địa bàn đột nhiên phá trong sản xuất kinh tế. Nghiên cứu để sớm xuất hiện một số khu câu kết kinh tế xuyên biên cương non sông với một số nước láng giềng; hiện ra các cặp cửa khẩu để gia tăng thích hợp tác kinh tế có hiệu quả.
Đối với các vùng yếu tố kiện KT-XH còn gian truân, cần có chính sách nhằm hướng việc lôi cuốn đầu tư vào các đơn vị quản lý khai thác ưu thế so sánh, phù hợp với vấn đề kiện thiên nhiên và phố hội; làm cho rõ tác dụng bảo tàng sinh thái, gìn giữ văn hóa, bảo đảm bình an chính trị, để từ đó có những chính sách tích hợp toàn cục đặc thù cho vùng đảm bảo các công dụng trên.
Bốn là, các nhà công nghệ, chuyên gia cần tiếp diễn phân tích, bắt buộc các giải pháp xúc tiến phân vùng có lí, công nghệ, thích hợp với thực tế; hoàn thành quy hoạch phát hành vùng trên hạ tầng ưu điểm so sánh của từng địa phương; sử dụng triệt để ưu thế của sự kết nối trên “không gian ảo” để liên kết vùng hoàn toản.
________________________
(1) https://kinhtetrunguong.vn: “Cần trả lời 9 thắc mắc về hòa hợp vùng”, 1/4/2016;
(2), (4), (5) https://www.linkedin.com: “Đoàn kết vùng là gì?”, 16/1/2017;
(3) http://khucongnghiep.com.vietnam: “Kết hợp vùng: Biện pháp để sản xuất vững bền các KCN duyên hải miền Trung”, 7/9/2016.
Theo lyluanchinhtri.vn